Đông y cũng có bệnh danh như bệnh cao huyết áp đơn thuần, bệnh cao huyết áp tiểu đường, bệnh cao huyết áp phong thấp, bệnh cao huyết áp phong đàm, hàn đàm, nhiệt đàm, bệnh cao huyết áp suy hô hấp, cao huyết áp suy thận, cao huyết áp suy tim, cao huyết áp xơ gan, cao huyết áp thai sản, cao huyết áp tâm lý thần kinh.. ..Tất cả các loại cao huyết áp ấy đều phải tìm nguyên nhân quy về chứng do tạng phủ nào làm ra. Biết được chứng bệnh ở tạng phủ nào thì mới có cách chữa là đối chứng trị liệu…

Theo cách chữa của Tây y

Cách Khám bệnh, xét nghiệm, tìm và định bệnh của cả hai phương pháp tuy khác nhau nhưng rất chính xác, công phu, nhưng khác nhau ở cách chữa.

Cách chữa của tây y tùy theo sự tiến bộ của khoa học được chia thành bốn thời kỳ :

a-Thời kỳ chưa có máy đo áp huyết :

Khi chưa có máy đo áp huyết, tây y chưa định danh được bệnh cao huyết áp, đều chữa theo triệu chứng do bệnh nhân khai bệnh :
-Nếu nhức đầu, cho uống thuốc nhức đầu.
-Nếu táo bón, chữa táo bón.
-Nếu mất ngủ, chữa mất ngủ.
-Nếu mệt mỏi, cho thuốc bổ.
-Nếu chảy máu cam, chữa chảy máu cam ( Vitamine K )
Thời kỳ này tây y dùng thuốc rất đơn giản, bệnh nhân có thể bớt được vài chứng bệnh như hết bón, hết nhức đầu, ngủ được, ăn được. Bệnh nhân tin ở bác sĩ, không phải lo lắng gì, vì những triệu chứng riêng rẽ như thế không phải là bệnh nan y.

Đánh giá cách chữa áp huyết cao bằng đông y và tây y!
Đánh giá cách chữa áp huyết cao bằng đông y và tây y!

Nếu có bệnh nhân thường xuyên tái đi tái lại, bác sĩ cảm thấy các loại thuốc bào chế sẵn không mấy hiệu nghiệm, phải viết toa bào chế riêng , công thức do bác sĩ sáng tạo cho phù hợp với chứng bệnh, bệnh nhân cầm toa ra viện bào chế ở các nhà thuốc tây lớn chờ họ bào chế xong đem về dùng, uống một thời gian ngắn một tuần các chứng giảm dần, bác sĩ điều chỉnh lại toa thuốc khác, chừng vài lần thay đổi toa bệnh nhân thấy hết hẳn một thời gian lâu không tái phát, tinh thần bệnh nhân sung sướng, không phải lo lắng hoặc bị ám ảnh mình đang bị một chứng bệnh nan y mà ngày nay phải uống thuốc suốt đời cho đến khi lìa đời mới chấm dứt cả mạng cả thuốc.

Xem thêm: An cung trúc hoàn giúp điều hoà huyết áp sau chỉ 1 liệu trình!

Việc khám bệnh, định bệnh cho toa thuốc trị bệnh cao huyết áp thời đó hoàn toàn do tài năng của bác sĩ. Cách suy tư, tài lý luận biện chứng để cho ra một phương thuốc riêng cho một bệnh nhân có thể nói là một sự sáng tạo đúng, chính xác, đơn giản, hiệu nghiệm.

b-Thời kỳ máy đo áp huyết ra đời và sự phát triển của ngành dược:

Mọi bệnh nhân khi có 5 chứng bệnh khai ở trên, đều được đo thử áp huyết để bác sĩ rút tỉa kinh nghiệm, có chứng lúc đo áp huyết thấy tăng cao, có chứng khi đo áp huyết không cao, nhưng phương pháp chữa vẫn cổ điển, dùng thuốc theo toa bào chế riêng cho từng người có thể nói đa số có kết qủa.

Thời kỳ kinh tế thế giới phát triển, thuốc thành phẩm được chế hàng loạt, giá rẻ, tiện lợi nhanh chóng không phải bào chế riêng vừa chờ đợi bào chế, vừa đắt tiền, có khi không đủ nguyên liệu ở một nhà thuốc, kinh tế thị trường nghiêng về lợi nhuận, bán chạy ít kẹt vốn, cho nên nhà thuốc nghiêng về nhập cảng và bán những thuốc thành phẩm bào chế sẵn, các bác sĩ dù có giỏi lý luận và kinh nghiệm chữa bệnh bằng cách cho toa thuốc riêng từng người thì ở nhà thuốc không có nguyên liệu bào chế nữa, đành phải sử dụng những thuốc thành phẩm có sẵn ở thị trường, hiệu nghiệm của thuốc kém đi nhiều.

Khi bệnh nhân được đo áp huyết bác sĩ thấy áp huyết cao, thuốc thành phẩm không đáp ứng nhu cầu, mới nẩy sinh ra nhu cầu cần phải phát minh tìm tòi chế ra thuốc trị bệnh cao huyết áp. Đầu tiên, theo nhận xét chung của tây y, áp huyết tăng là do co mạch, dễ bị biến chứng đứt mạch máu nên ngành dược chế ra thuốc làm giãn mạch.
Các bác sĩ đo áp huyết bệnh nhân thấy cao, nên điều trị các chứng nhức đầu, táo bón, phối hợp thêm thuốc giãn mạch, kết qủa cũng khả quan, liều lượng gia giảm tùy theo kinh nghiệm riêng của bác sĩ.
Một thời gian sau ngàng y lại khám phá ra nguyên nhân bí tiểu cũng có thể làm căng mạch máu, ngành dược lại chế ra thuốc thành phẩm lợi tiểu cũng góp phần làm hạ áp huyết.

c-Thời kỳ máy thử cholestérol ra đời:

Giới y học nhận xét đa số bệnh nhân cao huyết áp, nếu là người mập do ăn nhiều, dư thừa chất béo, ngành xét nghiệm đã thử chất béo trong máu gọi là cholestérol, nên ngành khoa học kỹ thuật tìm cách phát minh ra máy đo cholestérol và ngành dược phát minh ra thuốc hạ mỡ trong máu, cũng nằm trong danh sách thuốc trị bệnh cao huyết áp.

d-Thời kỳ phát triển khoa tâm lý thần kinh :

Người ta để ý rằng các bệnh nhân cao huyết áp đã dùng thuốc được ổn định, nhưng khi giận dữ, làm việc căng thẳng đầu óc, bực bội khó chịu, thì tự nhiên áp huyết tăng vọt lên làm đứt mạch máu não gây tê liệt, làm té ngã bị hôn mê bất tỉnh (coma ),bị tử vong. Từ đó rút ra được kết luận do biến đổi tâm lý làm biến đổi thần kinh khiến gân mạch co rút áp huyết tăng nhanh đột ngột, nên ngành dược lại phát minh ra thuốc phong bế giao cảm, loại tác dụng lên thụ thể trung ương làm ức chế dao động thần kinh làm cho người như ngây như dại, ít cảm giác, ít xúc động hồi hộp, xem chừng như có vẻ hiệu nghiệm, tên thuốc thị trường lúc đó thịnh hành thuốc Clonidine như là một loại thần dược, sau này người ta khám phá ra sự tai hại của Clonidine. Khi có bệnh cao huyết áp dùng clonidine áp huyết hạ, nhưng người như đờ đẫn ngây dại không năng động, đó là phản ứng phụ của thuốc, cho nên tây y không muốn lạm dụng clonidine, cho bệnh nhân nghỉ dùng clonidine để thần kinh tỉnh táo lại thì gặp trở ngại áp huyết lên đột ngột làm chết người, ngành y dược khuyến cáo không được bỏ hẳn mà phải uống liều giảm dần cầm chừng cho đến suốt đời.

Xem thêm: Những dấu hiệu báo trước của Bệnh cao áp huyết!

e-Những biến chứng của thuốc trị cao huyết áp

Chiều hướng dùng thuốc chẹn dòng giao cảm, ngoài Clonidine ức chế thần kinh qúa mạnh, khi giảm và ngưng nó có thể gây nguy hiểm đến tánh mạng, ngành dược cố gắng phát minh ra các loại thuốc mới thay thế. Tuy nhiên ức chế giao cảm làm hệ thần kinh đối giao cảm, thần kinh phản xạ, thần kinh chức năng, thần kinh hưng phấn, thần kinh trung ương chỉ huy sự hô hấp, tuần hoàn, tiêu hóa, bài tiết, sinh dục.. mất khả năng khí hóa, dần dần suy nhược làm suy tim, suy hô hấp, suy thận, suy gan, suy tỳ.. sinh ra biến chứng của bệnh cao huyết áp , có 11 trường hợp chính được ghi nhận như sau :

1-Biến chứng suy tim do thuốc giãn mạch :

Dùng thường xuyên thuốc giãn mạch làm ống mạch giãn mỏng và dai, thể tích ống mạch to ra, lượng huyết chứa trong ống sẽ tụt xuống tạo sự giảm áp huyết giả tạo, cho nên biên độ giao động của áp huyết khi áp huyết tăng cao có thể lên 240/100 mmHg vẫn không nguy hiểm, khi áp huyết tụt xuống chỉ đến mức 150/100 mmHg là mạch còn an toàn không nguy hiển tánh mạng, nhưng khi ống mạch màng bao tim giãn sẽ làm cho qủa tim bị thòng xuống khiến nhịp tim đập rất chậm, mạnh, không đều, chỉ nghe được nhịp đập ở đáy tim đưa đến tình trạng suy tim. Khi áp huyết bệnh nhân xuống dưới 140/100 mmHg bệnh nhân cảm thấy rất mệt khó thở.

2-Biến chứng suy hô hấp do thuốc giãn mạch và thuốc chẹn dòng giao cảm :

Thuốc chẹn giao cảm làm giảm bớt chức năng hưng phấn thần kinh, có ảnh hưởng đến hô hấp và tuần hoàn, cho nên suy hô hấp là tình trạng thiếu khí trong phổi, thiếu oxy trong máu, giảm oxy-huyết làm các đầu ngón tay xanh tím không cảm giác, ý thức u ám, đờ đẫn, ngủ gà. Bệnh sẽ trở nặng thêm nếu dùng thuốc ngủ, thuốc an thần, thuốc lợi tiểu gây kiềm, hoặc áp dùng liệu pháp oxy không phải lúc cần thiết đúng bệnh, hoặc áp suất không khí thay đổi như đi nghỉ hè thay đổi không khí ở vùng cao độ.
Thuốc giãn mạch liều cao có thể làm khó thở thêm, xét điện tâm đồ có dấu hiệu suy thất phải, nếu có dấu hiệu ho ban đêm là dấu hiệu xẩy ra sớm của suy thất trái.

3-Biến chứng suy thận do hạ áp huyết và thuốc lợi tiểu :

Thuốc hạ áp là một trong nhiều nguyên nhân khác nhau làm suy thận chức năng, làm tăng uré-huyết gắn liền với mất cân bằng nước-điện giải, và mất cân bằng trong tuần hoàn làm giảm kali-huyết và mất nước.
Ngược lại, lạm dụng thuốc lợi tiểu làm mất thêm nước, có dấu hiệu nhăn da, đau thắt lưng, vọp bẻ, đau bụng, giảm glucoza-huyết, giảm natri-huyết, có thể tăng kali-huyết gây nên biến chứng suy thượng thận cấp.

4-Chứng suy thận mãn tính :

Lạm dụng thuốc hạ áp huyết lâu dài để ổn định áp huyết sẽ có dấu hiệu thiếu máu, áp huyết thấp, buồn nôn, vọp bẻ, khi xét nghiện máu thấy uré-huyết tăng, nhiễm acide chuyển hóa, créatinine-huyết tăng, acide uric-huyết tăng đó là dấu hiệu của chứng suy thận mãn.
Còn có một nguyên nhân suy thận mãn do thói quen uống nhiều nước quá gọi là ‘’ngộ độc nước’’, không phải trong nước có độc, mà do lượng nước nhiều làm hại chức năng lọc của thận khiến thận bị suy yếu dần.

5-Biến chứng lách to do thuốc phong bế giao cảm :

Do lạm dụng thuốc phong bế giao cảm loại tác dụng lên thụ thể trung ương Alpha-Méthyl-dopa ( như Aldomet ) cũng là một trong nhiều nguyên nhân làm lách sưng to, cũng là dấu hiệu thiếu máu do tan máu, đôi khi có hội chứng tan máu uré-huyết với suy thận.
Ở người lớn, lách có thể sờ nắn được là lách bị bệnh, thấy có một khối ở hạ sườn trái, có thể nhìn thấy khối u thượng thận trái ở lưng không di động theo nhịp thở, lách to làm hạ góc kết tràng trái xuống thấp làm đùa bao tử sang phía phải, đấu hiệu lâm sàng trong chứng bệnh này là vàng da, nước tiểu đỏ hoặc đen (hémoglobine niệu ) và phân mầu sậm do thuốc L-dopa .

6-Biến chứng đau lưng nhức mỏi, phong thấp khớp :

Những người bị bệnh cao huyết áp khi dùng thuốc lâu dài, áp huyết được ổn định, khi ngưng thuốc đột ngột, áp huyết tăng trở lại như cũ nên phải dùng thuốc suốt đời, cho nên tình trạng áp huyết giảm sẽ làm cho khí huyết không đủ áp lực thúc đẩy tuần hoàn đi đến các khớp, các khe kẽ của khớp xương, đốt sống lưng, đốt ngón tay, khớp khuỷu tay, khớp vai, khớp đầu gối, khớp mắt cá cổ chân, cổ tay, huyết không đến nuôi dưỡng, bệnh nhân cảm thấy đau nhức, tê, bệnh kéo dài khiến gân, sụn, đầu xương khô , bị thoái hóa biến dạng như gai cột sống, vẹo khớp ngón tay chân, nổi khối u như lồi xương giữa hai khớp, đầu gối cứng khô, mòn, đau bên trong khó cử động.

Nếu chú trọng đến việc chữa bệnh cao huyết áp sẽ làm giảm áp lực tuần hoàn khí huyết sinh bệnh thoái hóa xương khớp sinh đau nhức phong thấp khớp gia tăng.

Nếu chữa bệnh phong thấp đau nhức khớp làm tăng áp lực tuần hoàn khí huyết để hết đau nhức thì áp huyết lại tăng cao, có triệu chứng sung huyết não, mất ngủ, nhức đầu, mệt tim. Khi nổi giận dễ bị đứt mạch máu não.
Vì theo tây y, bệnh xương bị đau nhức không chữa sau dễ bị xốp xương hoặc ung thư xương, nên bác sĩ chuyên khoa xương cho bệnh nhân dùng calcium để bổ xương, phụ nữ dùng thêm hormone. Nhưng khi thử máu lại có dư calci-huyết làm tăng áp huyết, bác sĩ chuyên trị áp huyết lại cho dùng thuốc chặn dòng calci để làm giảm calci-huyết để cho áp huyết hạ thì bệnh đau nhức xương khớp tái phát. Đó là cách chữa mâu thuẫn của chuyên khoa, không kết hợp với nhau, vả lại hiện nay tây y dược chưa có một loại thuốc thích hợp dung hòa để chữa chung cho cả hai bệnh cùng một lúc đựợc hoàn chỉnh, còn nếu chữa riêng rẽ thì vẫn có mâu thuẫn, chữa được bệnh này lại hại bệnh kia.

Một đề nghị cho bệnh nhân bị cả hai bệnh mâu thuẫn trên thì chỉ nên dùng một loại thuốc trị bệnh cao áp, còn bệnh đau nhức xương khớp không nên dùng thuốc uống hay chích, mà nên dùng thuốc xoa bóp bên ngoài, tắm nước nóng ấm với bột gừng, châm cứu, tập vận động chân tay, co duỗi chân tay, thể dục nhịp điệu arobic, đi bộ đi xe đạp tại chỗ, bơi lội nhẹ với nước nóng ấm, hoặc tập khí công, và tập đều mỗi ngày giúp khí huyết lưu thông đều vào đến khe kẽ khớp xương sẽ hết đau nhức.

7-Bệnh tiểu đường do thuốc lợi tiểu :

Bệnh tiểu đường, ở Việt nam gọi là bệnh của người giầu, nói chung là bệnh ăn uống dư thừa về dinh dưỡng, người béo mập, ăn nhiều mà ít chịu vận động tay chân để chuyển hóa năng lượng, ngoài ra còn do nguyên nhân di truyền, do nguyên nhân bị thương tích sọ và tủy sống, biến chứng của bệnh quai bị, thương hàn, lao, thai nghén, xáo trộn tuyến nội tiết, lạm dụng thuốc kháng viêm corticoĩds, ACTH và đặc biết là lạm dụng thuốc lợi tiểu trong điều trị bệnh cao huyết áp.

Bệnh tiểu đường và bệnh cao huyết áp cũng là một mâu thuẫn trong cách điều trị do thuốc. Dấu hiệu tiểu đường là khát nhiều do tăng năng tuyến giáp, tăng calci-huyết làm áp huyết tăng cao, mà thuốc lợi tiểu cũng làm tăng calci-huyết, tăng chlor-huyết và giảm kali-huyết làm xáo trộn tiêu hóa, xáo trộn nội tiết, xáo trộn chức năng thận, chức năng lá lách và tụy tạng mới sinh ra bệnh tiểu đường.

8-Biến chứng gỉảm áp huyết ở thế đứng do thuốc và do ăn uống :

Tất cả các loại thuốc giảm áp huyết và loại thuốc an thần kinh mạnh như Largactil,Aminazine.. thuốc lợi tiểu, thuốc nhuận trường, L-dopa, sẽ làm giảm áp huyết ở thế đứng, có dấu hiệu khởi phát như đái dầm, liệt dương, mất ý thức, mạch không đập nhanh, cuối cùng có dấu hiệu run tay chân Parkinson, liệt mắt.

Giảm áp huyết ở thế đứng làm giảm chlor-huyết dưới 90 mmol/l do chế độ ăn uống như uống nước nhiều gọi là hội chứng ngộ độc nước, làm tăng ngấm nước ngoài tế bào khiến giảm natri-huyết gây phù nề, hoặc do chế độ ăn cữ muối lâu dài, hoặc do thuốc lợi tiểu loại thiazide hoặc do bệnh thần kinh đái tháo đường.

Hợp chất của muối ăn là ClNa, do chế độ ăn nhạt trong điều trị bệnh cao huyết áp làm chlor-huyết giảm, natri-huyết giảm dẫn đến hậu qủa giảm thẩm thấu huyết tương, làm tăng ngấm nước tế bào sẽ có rối loạn ở não và thận sinh chán không muốn ăn, ói mửa, kiệt sức, lú lẫn tâm thần, viêm bể thận, co giật chân tay như bệnh Parkinson. Khi cơ thể mất qúa nhiều muối sẽ vã mồ hôi, thử natri-huyết lúc đó dưới 135 mmol/l, nhất là ở người lớn tuổi dùng thuốc lợi tiểu không được theo dõi cẩn thận làm suy thượng thận, xơ gan, suy tuyến giáp vì phải tăng tiết hormone chống lợi tiểu.

9-Biến chứng hạ áp huyết ở thế đứng và thuốc hạ đường-huyết làm hại mắt:

Bệnh mắt do nhiều nguyên nhân, trong đó có nguyên nhân do thuốc trị bệnh cao huyết áp và thuốc hạ đường huyết, máu không đủ lên nuôi não làm nhức nửa đầu ( migraine) kéo dài một thời gian làm mù bán manh ( mờ một bên ), hoặc mắt mờ như thấy sương mù trước mắt.

Hai loại thuốc trị cao huyết áp và trị bệnh tiểu đường dùng chung không hợp lý xảy ra tai biến nhẹ gây rối loạn dẫn truyền máu ở tim, khiến tình trạng mắt nhìn thấy sương mù lúc có lúc không, lúc nhìn rõ, lúc thấy mờ mờ, bệnh mắt kéo dài sẽ có dấu hiệu xuất huyết thủy tinh thể, viêm dây thần kinh thị giác, tăng áp lực sọ não ( nhức đầu ),phù não ( não có nước ), bệnh viêm thận nặng, đục thủy tinh thể.

10-Phù gai thị do thuốc giãn mạch :

Phù gai thị có nhiều nguyên nhân, nhưng thuốc giãn mạch là một nguyên nhân, khám đáy mắt để chẩn đoán bệnh tăng áp lực sọ não, khi thuốc giãn mạch làm tăng áp lực sọ não sẽ làm giảm thị lực, mù bán manh, ý thức u ám, tâm thần chậm, có nguy cơ tiến triển làm giảm đồng tử một bên, liệt dây thần kinh số 3, cơn ngủ thoáng qua ( narcolepsie ) sau đó là hôn mê ( coma ),tuột tiểu não làm vẹo cổ, rung giật nhãn cầu.

11-Tai biến mạch máu não do dùng thuốc không hợp lý :

Biến chứng cuối cùng của bệnh cao huyết áp là tai biến mạch máu não do nhiều nguyên nhân, trong đó có nguyên nhân dùng thuốc trong điều trị không hợp lý làm rối loạn thần kinh não, tăng giảm áp lực sọ não bất thường bởi các chất Cl, Na, Kali, Calci, Glucoza, Uric tăng giản trong máu, trong nước tiểu. Làm mạch máu khi căng khi giãn, bất ngờ làm đau nhức đầu kịch liệt kéo dài 24 giờ, không kịp tìm nguyên nhân qua xét nghiệm để biết chính xác do hóa chất nào trong cơ thể làm biến đổi sự căng mạch thái qúa, mà chỉ tạm thời cho dùng thuốc an thần giảm đau cũng không thể nào ngăn chặn kịp thời tai biến mạch máu não.

Các thể bệnh thường gặp trong tai biến mạch máu não như :

a-Xuất huyết não.
b-Khối máu tụ trong não
c-Nhũn não

a-Xuất huyết não :

Dấu hiệu lâm sàng :

Nhức nửa đầu nhất là về đêm, kèm theo chóng mặt ù tai, đó là bên sẽ bị xuất huyết, có thể chảy máu cam, xuất huyết võng mạc. Bệnh tiến triển nhanh qua hai giai đoạn :
Giai đoạn mới phát :
Đột ngột té ngã hôn mê, hoặc bắt đầu bằng nhức đầu dữ dội, ý thức giảm dần, ngủ mê 1-2 giờ sau không chữa kịp sẽ tiến triển sang giai đoạn hai .
Giai đoạn nặng gồm ba hội chứng :
Hôn mê sâu : Rối loạn chức năng tiếp ngoại và chức năng thực vật ( coma ), mặt tái nhợt, thở như ngáy, rối loạn nước và các chất điện giải, rối loạn cơ vòng, toàn thân bất động, mất phản xạ giác mạc và đồng tử.
Liệt nửa người : Bên liệt giảm trương lực cơ, liệt mặt thể trung ương. Liệt tay chân cùng một bên.
Rối loạn chức năng thực vật : Làm tăng tiết phế quản gây ứ nghẹt, khó thở, loạn nhịp thở, nhịp tim, tăng nhiệt, tăng áp huyết cao, mặt xanh hoặc đỏ, rối loạn dinh dưỡng, phù nề, đổ mồ hôi bên liệt, đa số 2/3 trường hợp tử vong trong vòng 10 ngày. Nếu qua khỏi, vẫn còn nguy cơ biến chứng nhiễm khuẩn hô hấp, tiết niệu, dinh dưỡng, nước và điện giải.

b-Khối máu tụ trong não :

Khi xuất huyết não, máu chảy ra không xâm nhập vào nhu mô não mà ứ đọng tại chỗ tạo thành một khối u do mạch qúa căng hoặc dị dạng mạch. Ở người trẻ còn khỏe mạnh, có triệu chứng liệt nửa người hoặc hôn mê ngắt quãng lúc tỉnh lúc mê, để lâu không chữa đúng và kịp lúc bệnh nặng hơn làm tăng áp lực sọ não, cần phẫu thuật thần kinh kịp thời tránh được tai biến mạch máu não.

c-Nhũn não :

Khi mô thần kinh thiếu máu nuôi dưỡng do các mạch máu bị tắc nghẽn, co thắt hay hẹp, tùy theo vị trí tắc nghẽn sẽ có những dấu hiệu lâm sàng để phân biệt như sau :
Rối loạn lời nói : Do thiếu máu nơi bán cầu não.
Rối loạn cảm giác : Do khu vực cảm giác thần kinh hư.
Hôn mê liệt nửa người : Do tắc mạch máu não, nhũn não xẩy đến từ từ, nếu không chữa kịp thời.
Qua giai đoạn cấp tính trong thời gian 10 ngày thoát khỏi tử thần, bệnh hồi phục dần, còn lại di chứng liệt cứng hoặc liệt mềm tay chân vô lực.

Nhận xét cách chữa của Tây y

a-Ở thời kỳ chưa có máy đo áp huyết :

Cách chữa còn đơn giản, bệnh thuyên giảm từng phần, thuốc không gây rối loạn chức năng thần kinh nên không xẩy ra biến chứng .

b-Ở thời kỳ máy đo áp huyết ra đời :

Chưa thống nhất cách chữa, phương pháp chữa còn tùy thuôc vào tài năng và kinh nghiệm riêng của bác sĩ, vừa chữa gốc vừa dự phòng, vừa phải cho toa bào chế thuốc cho từng trường hợp, nên cách chữa an toàn không gây biến chứng hại chức năng thần kinh tạng phủ và não bộ.

c-Ở thời kỳ định bệnh bằng xét nghiệm :

Tây y đã phân biệt được bệnh cao huyết áp và những biến chứng do thuốc ở nhiều dạng khác nhau, nhưng có trường hợp tìm ra nguyên nhân bệnh qua xét nghiệm nhưng thị trường không có thuốc đặc trị nên cần phải có sự can thiệp của phẫu thuật, ngoài ra, sự phân quyền giữa bác sĩ tổng quát và bác sĩ chuyên khoa, nên biến chứng của bệnh cao huyết áp không được giải quyết kịp thời và đồng bộ, đôi khi cách chữa và cách cho dùng thuốc mâu thuẫn tương phản làm rối loạn chức năng thần kinh thêm trầm trọng, biến chứng do thuốc không biết trách nhiệm về ai. Mặt khác, nếu áp dụng công thức trị bệnh cao huyết áp theo hướng dẫn của y tế thế giới sẽ bị gò bó, không dám sáng tạo một cách chữa toàn diện theo như kết qủa xét nghiệm, vì thẩm quyền chuyên khoa của mình bị giới hạn. Vì thế một bệnh nhân có một bệnh cao áp huyết mà phải cần đến nhiều bác sĩ chuyên khoa khiến cho thuốc của mỗi người khác nhau làm cho phản ứng thuốc gây rối loạn trầm trọng thêm.

-Đứng trên lập trường của bác sĩ gia đình :

Mình cảm thấy bó tay khi không chữa được bệnh cao huyết áp, hình như chưa có loại thuốc nào hiệu nghiệm, an toàn, mặc dù xét nghiệm đã tìm được nguyên nhân, hoặc có những loại thuốc đặc trị lại không thuộc thẩm quyền cho toa sẽ dẫm chân lên lãnh vực chuyên môn của bác sĩ chuyên khoa.

-Đứng trên lập trường của bác sĩ chuyên khoa :

Mình chỉ chữa những biến chứng thuộc lãnh vực chuyên môn và cho những thuốc thuộc lãnh vực thuộc thẩm quyền chuyên môn của mình, việc theo dõi chữa trị bệnh cao huyết áp thuộc trách nhiệm của bác sĩ gia đình. Cho nên bệnh cao áp huyết có nhiều biến chứng khác nhau phải qua nhiều bác sĩ chuyên môn khác nhau , thuốc chữa cũng khác nhau gây ra phản ứng thuốc kỵ nhau của nhiều loại thuốc chuyên trị, nào là thuốc trị cao áp huyết, nào là thuốc trị tim mạch, nào là thuốc trị Parkinson, nào là thuốc phong thấp đau nhức, nào là thuốc bổ xương , nào là thuốc thần kinh, thuốc trầm cảm trị stress, nào là thuốc trị depresse, nào là thuốc ngủ, an thần, nào là thuốc trị tiểu đêm, nào là thuốc táo bón, thuốc cholestérol, thuốc trị tiểu đường… hàng chục loại thuốc vào cơ thể một lúc gây nguy hiểm do phản ứng hóa dược tạo ra lại ngoài trách nhiệm của bác sĩ gia đình.

-Đứng trên lập trường của bệnh nhân :

Họ cảm thấy bệnh cao huyết áp là bệnh nan y khó trị, họ hoàn toàn tin vào lời dặn và cách chữa của bác sĩ gia đình suốt một thời gian dài khi thuốc chưa tạo ra biến chứng, nhưng phản ứng thuốc về lâu dài tạo ra biến chứng, sau khi xét nghiệm mới biết mình có nhiều bệnh nan y phải uống thêm nhiều loại thuốc khác của bác sĩ chuyên môn, chính nó là nguyên nhân do nhiều thuốc làm rối loạn chức năng thần kinh gây nguy hiểm hơn, nhưng không còn cách lựa chọn nào khác, đành phải nghe theo lời của nhiều thầy thuốc một lúc để tự mình hại mình một cách âm thầm cho đến khi chết mới không phải uống thuốc, đem theo nỗi oan mà không ai phải gánh trách nhiệm.

Theo cách chữa của đông y :

Đông y cổ đại chia làm 13 khoa gồm Nội khoa, Nhi khoa, Tạp y khoa ( tổng quát ), Phong khoa, Sản khoa, Nhãn khoa, Yết hầu khoa, Nha khoa, Chỉnh cốt khoa, Chấn thương khoa, Án ma khoa, Châm cứu khoa, Chúc do khoa. Nhĩ khoa nằm trong nội khoa, bao gồm các bệnh chuyên môn của lục phủ ngũ tạng mà không chia ra chuyên khoa tim mạch, khoa thần kinh, khoa gan ruột, thận, phổi. . như tây y.

an cung trúc hoàn 2018
an cung trúc hoàn 2018

Riêng khoa châm cứu chuyên chữa và điều chỉnh mọi chức năng thần kinh bằng châm cứu trên huyệt đạo kinh mạch. Nội khoa và Nhi khoa tên gọi thời Trung quốc cổ đại là Đại phương khoa và Tiểu phương khoa, đều chuyên sử dụng dược thảo một cách thấu đáo tường tận. Mỗi loại thuốc lấy từ cây cỏ phải biết đầy đủ các yếu tố tính-khí-vị để chữa trị như vị thuốc mặn, ngọt, chua, cay, đắng để dẫn tính thuốc và khí thuốc vào tạng phủ nào, dẫn vào mạnh gọi là vị hậu , dẫn vào yếu chậm, từ từ gọi là vị bạc.. Tính thuốc theo bát pháp như ôn, bổ, tả, tiết, hãn, xuất, liễm, thông hay hòa.. Còn khí thuốc làm cho tăng hay giảm hàn hay nhiệt, thăng lên hay giáng xuống, liễm vào hay xuất ra,làm cho thổ mửa ra hay làm cho hạ khiến đi cầu, hay có tính giảm đau an thần, loại thuốc bổ hay tả khí hay huyết..

Nếu chữa bằng huyệt đạo châm cứu, căn bản có 365 huyệt, khi huyệt được kích thích cũng có đầy đủ yếu tố tính , khí và vị hậu hay bạc như thuốc cây cỏ, còn vị giác để dẫn tính khí của thuốc vào tạng phủ như mặn vào thận, ngọt vào tỳ, chua vào gan, cay vào phế, đắng vào tim thì không có như thuốc cây cỏ, mà phải dùng huyệt trên đường kinh theo quy tắc riêng ‘’ con hư bổ mẹ, mẹ thực tả con ‘’.Cho nên dùng thuốc bên ngoài đưa vào cơ thể khi cơ thể gầy ốm, thiếu khí huyết không thể kích thích bằng huyệt, người ta gọi là phương pháp dùng ngoại dược, trong trường hợp cơ thể có da thịt, mập mạp khi bị bệnh, có thể không cần ngoại dược, chỉ cần kích thích huyệt tạo ra chất thuốc tương đương như ngoại dược mà không sợ có phản ứng phụ, người ta gọi là phương pháp dùng nội dược .

Do đó, bệnh cao huyết áp hoặc các biến chứng của bệnh cao huyết áp hay bất kỳ một bệnh nào khác cũng chỉ có một thầy thuốc nội khoa hoặc châm cứu có thể chỉnh lại mọi rối loạn bất thường của sự khí hóa của tổng thể ngũ hành tạng phủ để lập lại quân bình và tái tạo lại hệ thần kinh giúp cho tinh-khí-thần hòa hợp thì mọi bệnh tật sẽ tự động hết.

Sử dụng ngoại dược ( các vị thuốc cây cỏ ) và sử dụng nội dược (các huyệt ), nếu phù hợp với nhu cầu cơ thể qua phương pháp Tứ chẩn, định ra được mạch bệnh trong 28 bộ mạch, và lý luận tìm nguyên nhân gốc là bệnh có thể chữa hết. Bệnh tật của mọi thời đại giống nhau, nên đông y không có bệnh danh cao huyết áp, đông y chỉ coi như là một chứng bệnh, như phong thấp là dấu hiệu của một chứng, tiểu đường là dấu hiệu của một chứng, nhức đầu là dấu hiệu của một chứng… đối với tây y là một bệnh danh. Chứng của đông y phải nói lên được tính chất bệnh của tạng phủ hay khí huyết như : can hàn, thận nhiệt, can hư hàn, thận thực nhiệt, can thực thận hư…

1-Điểm tương đồng :

Đông và tây y đều phải xét nghiệm để định bệnh trước khi chữa, một bên xét nghiệm bằng tứ chẩn, một bên xét nghiệm bằng máy móc dụng cụ.

2-Điểm dị biệt :

Đông y chữa bệnh ở gốc tạng phủ theo chức năng và theo hệ thống khí hóa của ngũ hành chung của lục phủ ngũ tạng và chữa vào chứng bệnh thuộc hệ thống khí hóa. Còn tây y chữa trực tiếp vào cơ sở bị tổn thương thực thể bằng mổ xẻ như ống dẫn máu tắc nghẹt, van tim, tắc mạch máu não, hoặc chữa bằng thuốc bào chế sẵn theo bệnh danh như đường trong máu, mỡ trong máu, nhức đầu, căng mạch làm giãn mạch không chữa vào nguyên nhân gốc như đông y.

Đông y cũng có bệnh danh như bệnh cao huyết áp đơn thuần, bệnh cao huyết áp tiểu đường, bệnh cao huyết áp phong thấp, bệnh cao huyết áp phong đàm, hàn đàm, nhiệt đàm, bệnh cao huyết áp suy hô hấp, cao huyết áp suy thận, cao huyết áp suy tim, cao huyết áp xơ gan, cao huyết áp thai sản, cao huyết áp tâm lý thần kinh.. ..Tất cả các loại cao huyết áp ấy đều phải tìm nguyên nhân quy về chứng do tạng phủ nào làm ra. Biết được chứng bệnh ở tạng phủ nào thì mới có cách chữa là đối chứng trị liệu .

Bệnh cao huyết áp theo đông y định bệnh gồm các chứng như là Dương cang can nhiệt chứng, âm hư dương can chứng, can thận âm hư chứng, âm dương lưỡng hư chứng, can khí uất kết chứng, can uất tỳ hư chứng, can phong nộI động chứng, can khí nghịch chứng, can hỏa thượng viêm chứng, can dương thượng kháng chứng.. mỗi chứng và mỗi bệnh danh do chứng nào làm ra bệnh đều có trong danh mục bệnh của y học đông phương cổ đại, có chỉ dẫn những dấu hiệu lâm sàng khác nhau và phương dược căn bản để chữa khác nhau bằng nội ngoại dược. Nếu thầy thuốc không muốn áp dụng theo toa căn bản đã tích lũy kinh nghiệm nhiều đời vì hai lý do, một là chưa hiểu cách phối hợp kỳ diệu của cổ nhân tại sao phải phối hợp như vậy, hai là khi dùng toa căn bản để biết vị thuốc nào trong toa là chính dùng làm quân, thần, còn tá, sứ có thể phải thay đổi gia giảm cho phù hợp với điều kiện sức khỏe của bệnh nhân, cho nên khi đối chứng trị liệu lâm sàng giỏi thì phải thay đổi thành phần thuốc luôn luôn cho hợp từng giai đoạn tiến triển của bệnh, sau mỗi lần tái khám bằng tứ chẩn để gia giảm phương dược cho đến khi khỏi bệnh.

Hiện nay bên Trung Quốc cũng như Việt Nam, một thầy thuốc được đào tạo ra phải am tường cả đông lẫn tây y, và ngoài thuốc bắc phải dùng thang mỗi khi bắt mạch, đông y phải bào chế sẵn thuốc thành phẩm theo dạng tây y theo tiêu chuẩn của tây dược để bác sĩ có thể sau khi khám xét một căn bệnh và viết toa cho thuốc được cả hai loại đông tây dược.

Thay phần kết luận :

Nếu chỉ với mục đích phục vụ sức khỏe cho con người một cách ưu việt vẹn toàn, cả hai ngành đông tây y được liên kết trong chương trình đào tạo thầy thuốc tương lai trong tinh thần cởI mở, hòa hợp trong cách khám, chữa và dùng thuốc được chọn lựa tối ưu sẽ giảm thiểu được các phản ứng phụ cho bệnh nhân lại đỡ tốn kém khi xét nghiệm về cả thời gian, tiền bạc, và kết qủa chữa bệnh lại nhanh chóng, sức khỏe mau bình phục, đó là một may mắm cho bệnh nhân hơn là một phương pháp riêng lẻ đối chọi nhau như hiện nay làm cho bệnh nhân phải chịu nhiều thiệt thòi oan uổng trong những ca bệnh nan y.

Xem thêm: Đánh giá thuốc ổn định huyết áp an cung trúc hoàn!