Ô Rô còn gọi là đại kế, thích kế, thiết thích ngãi, dã thích thái, thích khải tử, hổ kế, mã kế, dã hồng hoa, sơn ngưu bàng, hê hạng thảo.

Ô Rô là một loại cỏ sống lâu năm, rễ hình thoi dài, có nhiều rễ phụ, thân cao 58 – 100 cm hay hơn: Thân màu xanh, có nhiều rãnh dọc, nhiều lông. Lá ở góc dài 20-40cm hay hơn, rộng 5-10cm, hai lần xẻ lông chim, thành thuỳ, mặt trên nhẵn mép có gai dài, lá ở thân không cuống, chia thuỳ. Càng lên trên càng nhỏ và chia đơn giản hơn. Cụm hoa hình đầu mọc ở kẽ lá hay đầu cành, đường kính chừng 3-5cm. Lá bắc hẹp nhọn, không đều, lá ngoài ngắn và rất nhọn, lá bắc trong có đầu mền hơn, tất cả đều ít lông, có gân chính giữa nổi rõ. Cánh hoa màu tím đỏ. Quả thuôn dài 4mm, nhẵn, hơi dẹt. Mùa hoa và quả từ tháng 5-9.

Cây Ô Rô
Cây Ô Rô

Công dụng và liều dùng của Ô Rô

Ô Rô được nhân dân dùng làm thuốc từ lâu đời. Vị này đã được ghi trong Danh y biệt lục (502-549) và Bản thảo cương mục (1596).

Theo tính chất ghi trong sách cổ, ô rô vị cam (ngọt) khổ (đắng), lương (mát), chủ yếu chữa thổ huyết, máu cam, tiểu tiện ra máu, bị đánh hay ngã mà chảy máu băng đới; còn có tác dụng làm mát huyết, tiêu thũng, thông sữa.

Có thể dùng cây và lá hay rễ tươi giã ép lấy nước hoặc phơi khô sắc uống.

Liều dùng hàng ngày: Cây tươi 100 đến 180g, cây và rễ khô 40-60g. Có người chỉ dùng 6-12g cây khô sắc uống phối hợp với các vị khác. Xem thêm: Cao Hà Thủ Ô chữa tóc bạc sớm!

Mới đây trong quân y viện 108 người ta đã dùng ô rô sắc uống chữa phù thận và có kết quả rất tốt.

Đơn thuốc có Ô Rô

Đại kế 20g, bồ hoàng 8g, táo đen 10 quả, nước 600ml, sắc còn 200ml, chia 3 lần uống trong ngày để chữa kinh nguyệt quá nhiều, băng huyết tử cung.

Nhân dân Trung Quốc dùng tiểu kế hay đại kế để chữa cùng những chứng bệnh, nhưng coi tiểu kế có tác dụng kém hơn đại kế.

Nguồn: GS-TS Đỗ Tất Lợi